NỘI DUNG KẾT LUẬN THỰC HIỆN CÔNG KHAI
1. Nội dung tố cáo thứ nhất: Tố cáo ông Đào Công Thiên – Nguyên Giám đốc Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã tham mưu hỗ trợ sai cho ông Nguyễn Văn Hứa trú tại thôn Phước Điền, xã Phước Đồng, thành phố Nha Trang với số tiền là 1.450.000.000 đồng (dự án dịch vụ hậu cần nghề cá Bắc Hòn Ông vào năm 2008).
1.1. Kết quả xác minh:
1.1.1. Nguồn gốc đất đìa, quá trình quản lý sử dụng đất của ông Nguyễn Văn Hứa:
Năm 1977, Ban kinh tế mới Phước Đồng đã huy động sức lao động đắp bờ bao ngăn dòng chảy sông Bình Tân tạo Đìa muối cá Bến Đá rộng 26,68 ha, trong đó có 7,43ha mặt nước dùng để nuôi cá và 19,25ha đất gò cao có cây Chà Là và Xác Mắm mọc tự nhiên. Diện tích 26,68 ha là thuộc quyền quản lý của Nhà nước.
Năm 1980, UBND xã Phước Đồng cho ông Nguyễn Văn Hứa khai thác mặt nước đìa Bến Đá diện tích 7,43 ha trong thời gian là 3 năm từ (1980-1983) nhưng không thu tiền. Hết thời hạn khai thác, ông Nguyễn Văn Hứa đã ký hợp đồng khai thác diện tích đất đìa trên với UBND xã Phước Đồng qua 2 lần hợp đồng: lần thứ nhất hợp đồng số 232/UB ngày 04/8/1983 với thời gian khai thác 4 năm từ (1983-1987); lần thứ hai hợp đồng số 05 VP/UB ngày 12/01/1987 với thời gian khai thác là 7 năm từ (1987-1993). Trong quá trình khai thác đìa, ông Hứa đã tự lấn chiếm quản lý sử dụng 13,2574 ha đất gò cao cây Chà Là, Xác Mắm mọc tự nhiên làm vùng đệm bảo vệ đìa, san ủi đất và sang nhượng đất trái pháp luật. Hết thời hạn hợp đồng nhưng ông Hứa không trả lại đìa cho UBND xã quản lý mà tiếp tục quản lý, sử dụng nên UBND thành phố Nha Trang đã ban hành quyết định xử phạt hành chính 1008/UB ngày 15/7/1994 do hành vi vi phạm các điều 6, 26, 30, 85 của Luật Đất đai năm 1993 và có Quyết định số 1027/UB ngày 19/7/1994 về việc thu hồi toàn bộ diện tích đất đìa ông Nguyễn Văn Hứa chiếm sử dụng trái phép với diện tích 171,585m2, giao cho UBND xã Phước Đồng quản lý (gồm: 101.000 m2 đất đìa ông Hứa chiếm dụng trái phép và 70.585 m2 đất mặt nước hợp đồng thuê khai thác từ năm 1980 – 1993 hết hạn nhưng không trả lại đìa cho UBND xã và thanh lý hợp đồng).
Ngày 16/8/1999, UBND tỉnh ban hành Quyết định 2822/QĐ-UB bác đơn khiếu nại của ông Nguyễn Văn Hứa, công nhận Quyết định số 1027/UB ngày 19/7/1994 của UBND thành phố Nha Trang về việc thu hồi đất đìa của ông Nguyễn Văn Hứa chiếm sử dụng là đúng pháp luật.
Tuy nhiên, UBND thành phố Nha Trang và UBND xã Phước Đồng chưa tổ chức thực hiện quyết định thu hồi đất, dẫn đến ông Hứa vẫn tiếp tục sử dụng toàn bộ diện tích đất nêu trên cho đến khi UBND tỉnh có quyết định thu hồi đất và giao đất xây dựng Khu dịch vụ hậu cần nghề cá Bắc Hòn Ông; trách nhiệm này thuộc UBND thành phố Nha Trang đã được Thanh tra tỉnh có Kết luận và kiến nghị xử lý trách nhiệm tại Kết luận số 234/TTr-XKT ngày 18/5/2006 và UBND tỉnh đã kết luận tại Thông báo số 269/TB-UBND ngày 04/7/2006, chỉ đạo UBND thành phố Nha Trang tổ chức họp với các phòng, ban có liên quan thuộc UBND thành phố Nha Trang và UBND xã Phước Đồng để kiểm điểm làm rõ trách nhiệm đối với tập thể vá cá nhân có liên quan về những thiếu sót, khuyết điểm trong công tác quản lý đất và xử lý vi phạm về đất đai để chấn chỉnh và rút kinh nghiệm chung trong công tác quản lý, sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố Nha Trang.
1.1.2. Việc giải quyết hỗ trợ và quá trình giải quyết khiếu nại đối với ông Nguyễn Văn Hứa:
Thực hiện Dự án Dịch vụ hậu cần nghề cá Bắc Hòn Ông, ngày 19/8/2003, UBND tỉnh có Quyết định số 2614/QĐ-UB về việc thu hồi đất do tổ chức và các hộ gia đình cá nhân đang sử dụng để xây dựng cơ sở hạ tầng khu dịch vụ hậu cần nghề cá Bắc Hòn Ông với tổng diện tích 388.525,6 m2 (38,8525.6 ha); trong đó, thu hồi 58.589,10 m2 đất của hộ gia đình ông Nguyễn Văn Hứa đang sử dụng.
Ngày 24/9/2004, UBND tỉnh đã có Quyết định số 2502/QĐ-UB v/v phê duyệt kinh phí hỗ trợ; trong đó, hộ ông Nguyễn Văn Hứa được hỗ trợ với số tiền: 103.756.000 đồng (trong đó: hỗ trợ chi phí đầu tư ao đìa: 102.530.925đồng và hỗ trợ tài sản trên đất là : 1.225.075 đồng) nhưng ông Nguyễn Văn Hứa không đồng ý và có đơn khiếu nại.
Việc khiếu nại về bồi thường, hỗ trợ của ông Nguyễn Văn Hứa đã được Chủ tịch UBND thành phố Nha Trang giải quyết lần đầu tại Quyết định số 558/QĐ ngày 28/02/2005; tiếp đến, Chủ tịch UBND tỉnh đã có Quyết định số 974/QĐ-UBND ngày 07/11/2006 giải quyết khiếu nại lần hai với nội dung: bác đơn của ông Nguyễn Văn Hứa, về việc khiếu nại yêu cầu bồi thường 58.589,10 m2 đất bị giải tỏa và cấp đất tái định cư. Giao UBND thành phố Nha Trang thông báo cho ông Nguyễn Văn Hứa rõ việc giải quyết hỗ trợ 50% đối với chi phí đầu tư xây dựng đìa, hỗ trợ 30% đối với tài sản trên đất là mức hỗ trợ tối đa theo quy định.
Ngày 05/01/2007, UBND tỉnh có Thông báo số 02/TB-UB kết luận về việc sử dụng đất và chuyển nhượng QSD đất của ông Nguyễn Văn Hứa cho một số cá nhân là trái pháp luật; tại thông báo này, UBND tỉnh thống nhất chủ trương căn cứ Luật Đất đai 2003 để vận dụng giải quyết hỗ trợ ở mức tối đa theo quy định, kể cả những hộ đã chấp hành mà không khiếu nại.
Ngày 23/02/2007, UBND tỉnh có Quyết định số 374/QĐ-UBND về việc phê duyệt bổ sung nguyên tắc tính bồi thường, hỗ trợ cho các hộ dân bị giải tỏa của Dự án CSHT khu dịch vụ hậu cần nghề cá Bắc Hòn Ông theo đề nghị của UBND thành phố Nha Trang tại Tờ trình số 219 ngày 02/02/2007 với nội dung cụ thể như sau:
“1. Về bồi thường, hỗ trợ về tài sản: Hỗ trợ 80% mức bồi thường nhà, vật kiến trúc cho các trường hợp thu hồi đất mà không được bồi thường về đất cho các trường hợp thuộc dự án (kể cả đã phê duyệt hoặc chưa được phê duyệt kinh phí).
2. Về bồi thường, hỗ trợ chi phí đầu tư làm ao, đìa nuôi trồng thủy sản, hỗ trợ chuyển đổi nghề, tạo việc làm, chính sách tái định cư… áp dụng nguyên tắc quy định tại Quyết định số 02/2007/QĐ-UBND ngày 15/01/2007 về việc ban hành Quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa để xét bồi thường, hỗ trợ giải tỏa cho toàn dự án…”.
Ngày 06/07/2007, UBND tỉnh có Quyết định số 1191/QĐ-UBND về việc phê duyệt kinh phí bổ sung về bồi thường, hỗ trợ tài sản và chi phí xây dựng ao, đìa để thực hiện dự án xây dựng cơ sở hạ tầng Khu DVHC nghề cá Bắc Hòn Ông; theo đó, hộ gia đình ông Nguyễn Văn Hứa được hỗ trợ bổ sung: 63.542.000 đồng (trong đó: hỗ trợ chi phí đầu tư ao đìa: 61.518.555 đồng và hỗ trợ tài sản trên đất là: 2.023.445 đồng).
Tiếp đến, ngày 31/3/2008, Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư thành phố Nha Trang có Tờ trình số 603/UBND đề nghị hỗ trợ 80% giá đất nuôi trồng thủy sản cho các trường hợp có đất bị thu hồi đối với phần diện tích 17,1 ha có nguồn gốc đất của ông Nguyễn Văn Hứa; theo đó, Sở Tài chính đã tổ chức họp Hội đồng thẩm định để xem xét giải quyết vướng mắc thuộc dự án này và ngày 03/6/2008, Sở Tài chính có Tờ trình số 1402/STC-VG về việc giải quyết vướng mắc dự án khu dịch vụ hậu cần nghề cá Bắc Hòn Ông và đã kiến nghị: “Về chính sách hỗ trợ: áp dụng quy định tại Điều 7 Nghị định 22/1998/NĐ-CP ngày 24/4/1998 của Chính phủ và Khoản 5 Điều 5 Quyết định số 77/2002/QĐ-UB ngày 21/5/2002 của UBND tỉnh để xét bổ sung hỗ trợ về đất đối với diện tích đất 17 ha này.
- Về mức hỗ trợ: do mục tiêu chủ yếu là xét hỗ trợ thiệt hại cho các đối tượng nhận chuyển nhượng lại, trong số này chủ yếu là nhận chuyển nhượng sau ngày 15/10/1993, một số trường hợp không xác định thời điểm nhận chuyển nhượng; một số trường hợp sử dụng đất có nộp thuế sử dụng đất nhưng không đầy đủ, không liên tục, nên đề nghị áp dụng mức hỗ trợ theo Khoản 5 Điều 10 Quyết định Quyết định 77/2002/QĐ-UB:hỗ trợ 50% giá đất nông nghiệp (nuôi trồng thủy sản, làm muối) cho toàn bộ diện tích đất bị thu hồi… ».
Sau khi xem xét, ngày 27/6/2008, UBND tỉnh đã có văn bản số 3979/UBND về việc giải quyết vướng mắc về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dự án khu dịch vụ hậu cần nghề cá Bắc Hòn Ông với nội dung: “…đồng ý theo như đề nghị của Sở Tài chính tại văn bản nêu trên. Giao UBND thành phố Nha Trang căn cứ các nội dung báo cáo của Sở Tài chính, chỉ đạo Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư thành phố Nha Trang (Chủ đầu tư dự án) Sở Thủy sản (nay là Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn) và các cơ quan liên quan khẩn trương kiểm tra và triển khai thực hiện”.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của UBND tỉnh tại văn bản nêu trên, Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã lập phương án bổ sung kinh phí hỗ trợ các trường hợp sử dụng đất trong diện tích 17,1 ha đất của ông Nguyễn Văn Hứa trình thẩm định, phê duyệt theo quy định. Ngày 01/10/2008, UBND tỉnh đã có Quyết định số 2446/QĐ-UBND phê duyệt kinh phí bổ sung về hỗ trợ giải phóng mặt bằng các trường hợp sử dụng đất trong diện tích 17,1 ha đất với tổng số tiền: 3.084.640.000đồng; trong đó, ông Nguyễn Văn Hứa được hỗ trợ bổ sung: 1.230.371.000 đồng.
Như vậy, tổng số tiền ông Nguyễn Văn Hứa được hỗ trợ cả 03 đợt là: 1.397.669.000 đồng (trong đó: hỗ trợ chi phí đầu tư ao đìa: 164.049.480 đồng, hỗ trợ tài sản trên đất là: 3.248.520đồng và hỗ trợ thiệt hại về đất là: 1.230.371.000đồng).
1.2. Kết luận:
1.2.1- Về hỗ trợ tài sản, vật kiến trúc trên đất:
Căn cứ thẩm quyền của UBND tỉnh quy định tại Điều 16 Nghị định 22/1998/NĐ-CP ngày 24/4/1998 của Chính phủ, UBND tỉnh đã đồng ý giải quyết hỗ trợ đối với chi phí đầu tư ao đìa cho cho tất cả các hộ dân có ao đìa trong cùng một dự án (Khu dịch vụ hậu cần nghề các Bắc Hòn Ông), việc xem xét hỗ trợ trên cơ sở thực tế, có lý có tình đối với tất cả các trường hợp giải tỏa; do vậy, UBND tỉnh đã phê duyệt kinh phí hỗ trợ cho hộ ông Nguyễn Văn Hứa và và các hộ gia đình có đất bị thu hồi có nguồn gốc đất thuộc 17,1 ha của ông Nguyễn Văn Hứa tại Quyết định số 2502/QĐ-UB ngày 24/9/2004 và Quyết định số 1191/QĐ-UBND ngày 06/07/2007; trong đó, hộ ông Nguyễn Văn Hứa được hỗ trợ với số tiền 167.298.000 đồng (hỗ trợ chi phí đầu tư ao đìa: 164.049.480đồng, hỗ trợ tài sản trên đất là : 3.248.520đồng).
1.2.2- Về hỗ trợ thiệt hại về đất:
Việc giải quyết hỗ trợ thiệt hại về đất đối với trường hợp ông Nguyễn Văn Hứa và các hộ gia đình, cá nhân bị giải tỏa đất thuộc diện tích 17,1 ha có nguồn gốc từ ông Nguyễn Văn Hứa khi thực hiện dự án Khu dịch vụ hậu cần nghề cá Bắc Hòn Ông, UBND tỉnh đã cân nhắc, xem xét toàn bộ quá trình sử dụng đất của các hộ và căn cứ quy định tại Điều 7 Nghị định 22/1998/NĐ-CP ngày 24/4/1998 của Chính phủ về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và quy định tại Khoản 5 Điều 5 Quyết định số 77/2002/QĐ-UB ngày 21/5/2002 của UBND tỉnh về ban hành bản quy định về nguyên tắc bồi thường thiệt hại và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa để giải quyết hỗ trợ trên cơ sở có lợi cho người dân.
Ngày 01/10/2008, UBND tỉnh có Quyết định số 2446/QĐ-UBND phê duyệt kinh phí bổ sung về hỗ trợ giải phóng mặt bằng các trường hợp sử dụng đất trong diện tích 17,1 ha đất với tổng số tiền: 3.084.640.000đồng; trong đó, hộ ông Nguyễn Văn Hứa được hỗ trợ bổ sung: 1.230.371.000 đồng.
Do đó, nội dung tố cáo của công dân tố cáo ông Đào Công Thiên – nguyên Giám đốc Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã tham mưu hỗ trợ sai cho ông Nguyễn Văn Hứa trú tại thôn Phước Điền, xã Phước Đồng, thành phố Nha Trang với số tiền: 1.450.000.000 đồng vào năm 2008 là không đúng.
2. Nội dung tố cáo thứ hai: Tố cáo ông Huỳnh Kỳ Trầm – Giám đốc Ban QLDA các Công trình trọng điểm tham mưu hỗ trợ sai cho ông Nguyễn Văn Hứa, trú tại thôn Phước Điền, xã Phước Đồng, thành phố Nha Trang với số tiền là 1.612.484.869 đồng và áp giá hỗ trợ tùy tiện.
2.1. Kết quả xác minh:
Ngày 8/03/2012, UBND tỉnh có Quyết định số 586/QĐ-UBND về việc điều chỉnh Quyết định số 131/QĐ-UBND về việc phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng công trình: Cơ sở hạ tầng Khu dịch vụ hậu cần nghề cá Bắc Hòn Ông, giao Ban QLDA các Công trình trọng điểm làm chủ đầu tư, tiếp tục thực hiện các công việc còn lại để triển khai thực hiện dự án theo quy định của pháp luật.
Sau khi nhận bàn giao Dự án từ Sở Nông nghiêp và phát triển nông thôn, Ban QLDA các công trình trọng điểm đã rà soát phương án bồi thường hỗ trợ của dự án từ năm 2004 đến năm 2010. Xét thấy, hầu hết các trường hợp không nhận tiền là các trường hợp có ao đìa phê duyệt từ năm 2008 trở về trước (20 trường hợp, trong đó có ông Nguyễn Văn Hứa) có đơn giá bồi thường chi phí ao đìa là: 3.500đ/m2 nhưng các trường hợp phê duyệt năm 2010 lại được áp dụng đơn giá hỗ trợ là 34.000đ/m2. Do vậy, Ban QLDA các công trình Trọng điểm đã báo cáo UBND tỉnh tại báo cáo số 253/BC-DATD ngày 10/4/2013 về tình hình thực hiện dự án và đã kiến nghị UBND tỉnh điều chỉnh đơn giá đầu tư ao đìa đối với những trường hợp đã được phê duyệt trước năm 2008, từ 3500đ/m2 lên 27.205đ/m2 (đơn giá năm 2010: 34.006đ/m2 x 80%); trong đó, có trường hợp ông Nguyễn Văn Hứa và các hộ có đất bị thu hồi có nguồn gốc đất thuộc 17,1ha của ông Nguyễn Văn Hứa tại cuộc họp ngày 11/4/2013 do UBND tỉnh tổ chức. Ngày 17/4/2013, UBND tỉnh có Thông báo số 134/TB-UBND kết luận của UBND tỉnh về tình hình triển khai dự án XDCSHT Khu DVHC nghề cá Bắc Hòn Ông với nội dung:
“1. Đối với kiến nghị của Hội đồng bồi thường:
a) Hỗ trợ khác theo lãi suất ngân hàng Nhà nước (lãi nhập gốc theo năm):
- Các trường hợp đã phê duyệt từ 31/10/2008 trở về trước chưa nhận tiền bồi thường, đồng ý chủ trương hỗ trợ lãi suất từ ngày 31/10/2013.
- Các trường hợp đã phê duyệt 28/6/2010 chưa nhận tiền bồi thường, đồng ý chủ trương hỗ trợ lãi suất từ ngày phê duyệt đến 30/4/2013.
- Các trường hợp đã phê duyệt, đã nhận tiền bồi thường, nhưng nhận chậm sau năm phê duyệt, đồng ý chủ trương hỗ trợ lãi suất từ ngày 31/10/2008 (đối với các trường hợp phê duyệt từ năm 2008 trở về trước) và hỗ trợ lãi suất từ 28/6/2010 (đối với các trường hợp phê duyệt năm 2010) đến ngày tiến hành thủ tục chi trả tiền.
2. Đối với các kiến nghị của Ban QLDA các công trình Trọng điểm:
a) Các trường hợp có ao đìa đã phê duyệt phương án bồi thường năm 2008, đồng ý chủ trương hỗ trợ khác đối với chi phí đầu tư ao đìa được tính bổ sung là 27.205đồng/m2 (bằng 80% đơn giá các trường hợp phê duyệt năm 2010 và chưa kể phần hỗ trợ lãi suất như các trường hợp nêu trên)…”
Theo đó, 19 trường hợp có ao đìa được hỗ trợ bổ sung chi phí đầu tư ao đìa và lãi suất ngân hàng là: 3.668.277.233 đồng (chi phí đầu tư ao đìa: 2.527.628.688 đồng, hỗ trợ lãi suất ngân hàng: 1.140.648.545 đồng); trong đó, hộ ông Nguyễn Văn Hứa được hỗ trợ bổ sung với số tiền là: 1.612.484.869 đồng (chi phí đầu tư ao đìa: 1.111.083.692 đồng và hỗ trợ lãi suất ngân hàng là: 501.401.177 đồng) và đã được UBND thành phố Nha Trang phê duyệt kinh phí tại Quyết định số 1630/QĐ-UBND ngày 24/7/2013.
2.2. Kết luận:
Căn cứ thẩm quyền của UBND tỉnh quy định tại Điều 16 Nghị định 22/1998/NĐ-CP ngày 24/4/1998 của Chính phủ và để đảm bảo công bằng giữa các hộ dân trong cùng một dự án, UBND tỉnh đã đồng ý giải quyết đối với chi phí đầu tư ao đìa, được tính bổ sung cho các trường hợp đã phê duyệt năm 2008 với đơn giá 27.205đ/m2 và được hỗ trợ lãi suất ngân hàng tại Thông báo số 134/TB-UBND ngày 17/4/2013; như vậy, tất cả các trường hợp bị giải tỏa thu hồi đất có ao đìa đều được phê duyệt bổ sung kinh phí đầu tư ao đìa cùng một đơn giá 27.205đồng/m2.
Do vậy, nội dung công dân tố cáo ông Huỳnh Kỳ Trầm – Giám đốc BQLDA các công trình trọng điểm đã tham mưu hỗ trợ sai cho ông Nguyễn Văn Hứa, trú tại thôn Phước Điền, xã Phước Đồng, thành phố Nha Trang với số tiền là 1.612.484.869 đồng và áp giá hỗ trợ tùy tiện là không đúng.
3. Về nội dung tố cáo thứ ba: Tố cáo ông Huỳnh Hòa – Giám đốc BQLDA các công trình giao thông và thủy lợi đã tham mưu hỗ trợ sai cho ông Trương Văn Lý, trú tại 16 Tân An, phường Vĩnh Trường, thành phố Nha Trang với số tiền là 114.096.000 đồng (dự án Nam Bình Tân – Sông Lô) và áp giá hỗ trợ tùy tiện cụ thể như sau: ông Lý được hỗ trợ 480.000 đồng/m2 trong khi đó ông Phan Xuân Thuyền, thường trú tại 54b Cù Chính Lan, phường Phước Long, thành phố Nha Trang và ông Trần Quang Huỳnh chỉ được hỗ trợ 21.000 đồng/m2 trong cùng một dự án.
3.1. Kết quả xác minh:
3.1.1. Nguồn gốc đất, quá trình quản lý sử dụng đất của ông Trương Văn Lý và việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất:
Nguyên thửa đất gia đình ông Trương Văn Lý đang sử dụng tại thời điểm thực hiện Dự án đường Nam Bình Tân – Sông Lô là của ông Trần Văn Ba (bố của ông Phạm Anh Tuấn, ông Trần Minh Kiệt) có giấy chứng chỉ đăng ký do Ty Điều Địa Khánh Hòa cấp ngày 17/01/1967 với diện tích ba mẫu ta (tứ cận: Bắc giáp Sông, Nam giáp khe ông Lạc, Đông giáp Sông, Tây giáp núi Mã Kiệu). Sau năm 1975, ông Ba không sử dụng, đất bỏ hoang nên một số dân chiếm sử dụng, trong đó có ông Trương Khì (bố ông Trương Văn Lý) khai hoang, làm rẫy một phần diện tích đến năm 1988 thì qua đời, nên ông Trương Văn Lý tiếp tục sử dụng. Năm 1994, ông Trương Văn Lý có đơn xin giao đất sản xuất với diện tích 2500 m2 có tứ cận: Bắc giáp sông Bình Tân, Nam giáp đường cái vào UBND xã, Đông giáp đìa tư nhân, Tây giáp đìa ông Sáng, được UBND xã Phước Đồng xác nhận ngày 24/10/1994 nhưng thực tế ông Lý sử dụng với diện tích 7506m2 đất, tăng so với diện tích đất mà ông Lý xin giao đất sản xuất vào năm 1994; quá trình sử dụng, ông Lý chia cho ông Nguyễn Sáng ½ lô đất (3474 m2) do ông Sáng có công san ủi đất; thực hiện Dự án Hòn Rớ I, giải tỏa 640m2 đất và phần diện tích còn lại là 3.392 m2 đất. Năm 2000, các ông Phạm Anh Tuấn, ông Trần Minh Kiệt (con ông Trần Văn Ba) có đơn tranh chấp quyền sử dụng đất nêu trên và xuất trình giấy cho đất của ông Trần Văn Ba cho các con ngày 20/03/1992, không có xác nhận của chính quyền địa phương.
Do sau ngày giải phóng, ông Trần Văn Ba không sử dụng, không đăng ký theo quy định của pháp luật. Năm 1992, ông Ba lập giấy cho ông Kiệt và ông Tuấn bằng giấy viết tay, không có xác nhận của chính quyền địa phương. Đồng thời, ông Trương Văn Lý chỉ xuất trình được giấy xin giao đất sản xuất với diện tích 2.500 m2 được UBND xã Phước Đồng xác nhận ngày 24/10/1994 nhưng thực tế ông Lý sử dụng với diện tích 7.506 m2 đất, tăng so với diện tích đất mà ông Lý xin giao đất sản xuất vào năm 1994 là 5.006 m2 (7.506 m2 – 2.500 m2). Hiện trạng lô đất tranh chấp thuộc tờ bản đồ xã Phước Đồng số 12, thửa 29, diện tích 7.605 m2, loại đất hoang, tọa lạc tại thôn Hòn Rớ, xã Phước Đồng. Do vậy, ngày 17/10/2000, UBND thành phố Nha Trang có Quyết định số 3489/QĐ về việc giải quyết đơn tranh chấp quyền sử dụng đất của các ông Phạm Anh Tuấn, Trần Minh Kiệt đối với ông Trương Văn Lý với nội dung: “Bác đơn tranh chấp quyền sử dụng đất của các ông Phạm Anh Tuấn, Trần Minh Kiệt đối với ông Trương Văn Lý; thu hồi toàn bộ diện tích 3.392,0m2 đất do ông Trương Văn Lý sử dụng trồng bạch đàn tọa lạc tại tổ Bến Đá, thôn Phước Trung, xã Phước Đồng, thành phố Nha Trang giao UBND xã Phước Đồng quản lý và lập quy hoạch kế hoạch sử dụng đất trình UBND thành phố xem xét quyết định…”.
Sau khi UBND thành phố Nha Trang giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất tại Quyết định số 3489/QĐ ngày 17/10/2000 nêu trên, ông Lý tiếp tục có đơn khiếu nại gửi UBND tỉnh; ngày 03/12/2002, UBND tỉnh có Quyết định số 4123/QĐ ngày 03/12/2002 về việc giải quyết đơn tranh chấp quyền sử dụng đất của các ông Phạm Anh Tuấn, Trần Minh Kiệt đối với ông Trương Văn Lý tại tổ Bến Đá, thôn Phước Trung, xã Phước Đồng, thành phố Nha Trang với nội dung: công nhận Quyết định số 3489/QĐ ngày 17/10/2002 của UBND thành phố Nha Trang là đúng pháp luật. Tuy nhiên, UBND xã Phước Đồng không tổ chức thực hiện thu hồi đất theo Quyết định nêu trên mà hộ gia đình ông Trương Văn Lý, ông Phạm Anh Tuấn, Trần Minh Kiệt tự thỏa thuận phân chia đất và sử dụng liên tục cho đến khi thực hiện dự án.
3.1.2. Việc triển khai thực hiện dự án và giải quyết bồi thường, hỗ trợ đối với ông Trương Văn Lý:
Dự án đường Nam Bình Tân - Sông Lô đã được UBND tỉnh phê duyệt phương án đầu tư tại Quyết định 5985/QĐ-UB ngày 31/12/1997. Ngày 16/4/2003, UBND tỉnh có Quyết định số 954/QĐ-UB về việc điều chỉnh Quyết định số 5985/QĐ-UB ngày 31/12/1997. Tuy nhiên, đến năm 2008 mới triển khai thực hiện dự án.
Theo hồ sơ kỹ thuật thửa đất năm 2008 và biên bản kiểm kê khối lượng bồi thường giải tỏa, diện tích đất ông Trương Văn Lý đang sử dụng với diện tích: 1.003,9 m2, gồm 02 thửa: thửa số 02 có diện tích: 735 m2, thửa số 349 có diện tích: 268,9 m2.
Thực hiện Dự án đường Nam Bình Tân - Sông Lô - Phước Thượng, xã Phước Đồng, thành phố Nha Trang, ông Trương Văn Lý bị giải tỏa với diện tích 237m2 đất (thửa số 02) theo Quyết định số 2384/QĐ-UBND ngày 15/9/2009 của UBND thành phố Nha Trang.
Căn cứ các giấy tờ về nhà đất do ông Trương Văn Lý cung cấp tại thời điểm thực hiện dự án, gồm: đơn xin chứng thực đất của ông Trương Văn Lý được UBND phường Vĩnh Trường xác nhận ngày 10/3/1993; đơn xin giao đất sản xuất được UBND xã Phước Đồng xác nhận ngày 24/10/1994; đơn xin xác nhận có nộp thuế năm 1993, 1994, 1995 được UBND xã Phước Đồng xác nhận ngày 23/5/2002 và giấy xác nhận nguồn gốc, quá trình sử dụng đất của UBND xã Phước Đồng ngày 6/10/2008 với nội dung: “nguồn gốc đất được UBND xã Phước Đồng giao đất ngày 24/10/1994 với diện tích 2.500m2”, Ban QLDA các công trình Giao thông – Thủy lợi tỉnh Khánh Hòa đã lập phương án bồi thường, hỗ trợ cho ông Trương Văn Lý trình Hội đồng bồi thường thành phố Nha Trang. Ngày 17/9/2009, Hội đồng bồi thường thành phố Nha Trang đã họp và thống nhất bồi thường, hỗ trợ đối với trường hợp ông Trương Văn Lý là: 114.096.000 đồng (trong đó: bồi thường đất nông nghiệp là:14.975.100 và hỗ trợ 50% đơn giá đất ở liền kề khu dân cư trừ đi đơn giá đất nông nghiệp là: 99.120.900 đồng).
Ngày 10/11/2009, Hội đồng bồi thường thành phố Nha Trang đã có Tờ trình số 4080/UBND trình Hội đồng thẩm định tỉnh. Ngày 21/12/2009, Sở Tài chính đã có tờ trình số: 3418/TTr-STC-VG trình UBND tỉnh đề nghị phê duyệt kinh phí bồi thường cho 09 trường hợp, trong đó có hộ ông Trương Văn Lý. Ngày 31/12/2009, UBND tỉnh đã có Quyết định số 3487/QĐ-UBND phê duyệt kinh phí bồi thường cho 09 trường hợp, trong đó hộ ông Trương Văn Lý được bồi thường, hỗ trợ với số tiền 114.096.000 đồng.
Trường hợp ông Phan Xuân Thuyền và Trần Quang Huỳnh là những trường hợp bị giải tỏa bởi 02 dự án: dự án khu dịch vụ hậu cần nghề cá Bắc Hòn Ông (do Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn làm chủ đầu tư) và dự án đường Nam Bình Tân sông Lô (do Ban QLDA các CT GTTL làm chủ đầu tư). Thực hiện dự án đường Nam Bình Tân Sông Lô, hộ gia đình ông Thuyền bị giải tỏa với diện tích 620 m2 và hộ ông Huỳnh bị giải tỏa với diện tích 207 m2.
Do nguồn gốc đất của ông Thuyền và ông Huỳnh thuộc phần diện tích đất 171,585 m2 của ông Nguyễn Văn Hứa đã thu hồi theo Quyết định số 1027/QĐ-UB ngày 19/7/1994 của UBND thành phố Nha Trang nên UBND thành phố Nha Trang có văn bản số 3357/UBND ngày 12/11/2008 về việc hỗ trợ về đất nông nghiệp đối với các hộ bị ảnh hưởng bởi dự án đường Nguyễn Tất Thành (đoạn qua Khu dịch vụ hậu cần nghề cá Bắc Hòn Ông).
Ngày 17/12/2008, UBND tỉnh có văn bản số 7761/UBND với nội dung: “Đồng ý với đề xuất của UBND thành phố Nha Trang, giải quyết hỗ trợ 50% đơn giá đất nông nghiệp cho các trường hợp bị giải tỏa thuộc dự án nêu trên, có nguồn gốc đất nhận chuyển nhượng (thuộc 17 ha) của hộ ông Nguyễn Văn Hứa (tương tự như các trường hợp đã được giải quyết thuộc dự án Khu dịch vụ hậu cần nghề cá Bắc Hòn Ông)…” nên Ban QLDA các công trình Giao thông Thủy lợi đã lập phương án hỗ trợ cho 29 trường hợp, trong đó có hộ ông Phan Xuân Thuyền và ông Trần Quang Huỳnh và đã được UBND Tỉnh phê duyệt kinh phí tại Quyết định số 2067/QĐ-UBND ngày 28/8/2008.
3.2. Kết luận:
Trên có sở xem xét toàn bộ quá trình sử dụng đất của hộ ông Trương Văn Lý, căn cứ thẩm quyền, UBND tỉnh đã xem xét, giải quyết bồi thường, hỗ trợ đối với trường hợp ông Trương Văn Lý và 02 trường hợp có cùng nguồn gốc đất là bà Trần Thị Phương Dung và ông Trần Minh Kiệt.
Đồng thời, Ban QLDA các công trình Giao thông – Thủy lợi đã thực hiện hỗ trợ kinh phí đối với trường hợp Phan Xuân Thuyền và ông Trần Quang Huỳnh đúng nội dung văn bản số 7761/UBND ngày 12/11/2008 của UBND tỉnh về việc hỗ trợ giải tỏa cho các trường hợp bị giải tỏa thuộc đường Nguyễn Tất Thành.
Do đó, nội dung công dân tố cáo ông Huỳnh Hòa – Giám đốc BQLDA các công trình giao thông và thủy lợi đã tham mưu hỗ trợ sai cho ông Trương Văn Lý, trú tại 16 Tân An, phường Vĩnh Trường, thành phố Nha Trang với số tiền là 114.096.000 đồng và áp giá tùy tiện (so sánh giữa hộ ông Trương Văn Lý với hộ ông Phan Xuân Thuyền và hộ ông Trần Quang Huỳnh) là không đúng.
4. Nội dung tố cáo thứ tư: Tố cáo ông Nguyễn Ngọc Vóc – Nguyên Giám đốc Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh tham mưu hỗ trợ sai cho ông Trương Văn Lý, trú tại 16 Tân An, phường Vĩnh Trường, thành phố Nha Trang với số tiền (đợt 4) là 299.584.000 đồng và tham mưu cấp đất tái định cư cho ông Lý không đúng quy định.
4.1. Kết quả xác minh:
Thực hiện Dự án khu tái định cư Hòn Rớ II, xã Phước Đồng, thành phố Nha Trang, gia đình ông Trương Văn Lý bị thu hồi 766,2m2 đất (thửa số 02: 497,3 m2 và thửa số 349: 268,9 m2) tại tổ Bến Đá, thôn Phước Trung, xã Phước Đồng, thành phố Nha Trang; căn cứ giấy xác nhận số 892/XN-UBND ngày 22/9/2011 của UBND xã Phước Đồng về nguồn gốc đất: “Đất đã có quyết định thu hồi của UBND thành phố Nha Trang về việc thu hồi phần đất ông Trương Văn Lý sử dụng giao UBND xã Phước Đồng quản lý từ năm 2000 (Quyết định 3489/QĐ ngày 17/10/2000 của UBND thành phố Nha Trang). Hiện nay, ông Lý đang sử dụng vào mục đích trồng cây lâu năm”, hộ gia đình ông Trương Văn Lý được hỗ trợ: 8.745.000đồng theo Quyết định số 4780/QĐ-UBND ngày 30/12/2011 của UBND thành phố Nha Trang về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng đối với hộ ông Trương Văn Lý.
Tuy nhiên, ông Lý không đồng ý và có đơn khiếu nại, ngày 29/02/2012, Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh đã báo cáo UBND tỉnh tại báo cáo số 63/TTPTQĐ-PT về việc báo cáo tình hình thực hiện và những vướng mắc tồn tại trong công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư thuộc Dự án xây dựng CSHT khu tái định cư Hòn Rớ II, trong đó, có trường hợp ông Trương Văn Lý, bà Trần Thị Phương Dung (vợ ông Phạm Anh Tuấn) và ông Trần Minh Kiệt là những trường hợp có nguồn gốc đất đã bị thu hồi theo Quyết định số 3489/QĐ ngày 17/10/2000 của UBND thành phố Nha Trang.
Ngày 21/3/2012, UBND tỉnh có văn bản số 1353/UBND về việc giải quyết vướng mắc công tác BTGT và TĐC thuộc Dự án xây dựng CSHT Khu tái định cư Hòn Rớ II; tại văn bản này UBND tỉnh giao UBND thành phố Nha Trang: “... kiểm tra trường hợp thu hồi đất của các hộ Trần Minh Kiệt, Trương Văn Lý và Trần Thị Phương Dung (đã được bồi thường, hỗ trợ thuộc Dự án đường Nguyễn Tất Thành do BQLDA các công trình Giao thông – thủy lợi làm chủ đầu tư) đề xuất mức hỗ trợ cho phù hợp với Dự án Hòn Rớ II”.
Ngày 02/05/2012, UBND thành phố Nha Trang có Tờ trình số 1719/UBND về việc đề xuất bồi thường, hỗ trợ diện tích đất giải tỏa đối với các hộ ông Lý, ông Kiệt và bà Dung thuộc Dự án Khu tái định cư Hòn Rớ II, xã Phước Đồng, TP Nha Trang kèm theo phương án bồi thường, hỗ trợ do Trung tâm PTQĐ tỉnh Khánh Hòa lập ngày 25/4/2012. Tại văn bản này, UBND thành phố Nha Trang đề nghị UBND tỉnh Khánh Hòa thống nhất mức hỗ trợ đối với 03 hộ có đất bị thu hồi để thực hiện dự án Khu tái định cư Hòn Rớ II, theo phương án đính kèm do Trung tâm PTQĐ tỉnh Khánh Hòa lập ngày 25/4/2012.
Ngày 7/5/2012, UBND tỉnh Khánh Hòa có văn bản số 2263/UBND với nội dung: “Thống nhất phương án bồi thường, hỗ trợ đối với các hộ: Trần Minh Kiệt, Trương Văn Lý và Trần Thị Phương Dung theo như đề nghị của UBND thành phố Nha Trang (kèm theo phương án bồi thường, hỗ trợ do Trung tâm PTQĐ tỉnh Khánh Hòa lập ngày 25/4/2012)”. Ngày 9/5/2012, Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh có văn bản số 171/TTPTQĐ-PT đề nghị Phòng TN&MT thành phố Nha Trang thẩm định phương án bồi thường, hỗ trợ cho 03 trường hợp: ông Lý, bà Dung, ông Kiệt (đợt 4) thuộc dự án Hòn Rớ II. Ngày 21/5/2012, UBND thành phố Nha Trang đã có Quyết định số 1229/UBND phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ đối với 03 trường hợp nêu trên theo đề nghị của Phòng TN&MT thành phố Nha Trang tại Tờ trình số 1106/TTr-TNMT ngày 21/5/2012; trong đó, ông Trương Văn Lý được bồi thường, hỗ trợ là: 299.584.000 đồng.
Bên cạnh đó, khi triển khai thực hiện dự án Khu tái định cư Hòn Rớ II, có 37 trường hợp bị giải tỏa đất nông nghiệp có diện tích từ 1.000 m2 trở lên, không ở trên đất giải tỏa và có nhu cầu về đất ở nên không được Hội đồng BTHT&TĐC xem xét cấp đất tái định cư. Tuy nhiên, xét tình hình thực tế dự án, ngày 19/01/2011, Hội đồng Bồi thường, hỗ trợ và tái định cư thành phố Nha Trang đã có Tờ trình số 242/UBND trình UBND tỉnh kiến nghị giải quyết bán cho các trường hợp này 01 lô đất tái định tại đường quy hoạch 7m theo giá thị trường tại thời điểm giao đất.
Ngày 17/2/2011, UBND tỉnh có văn bản số 700/UBND đồng ý giải quyết đất ở theo giá thị trường đối với 37 trường hợp bị giải tỏa đất nông nghiệp có diện tích từ 1.000 m2 trở lên được giải quyết bán 01 lô tái định cư tại đường 7m theo giá thị trường tại thời điểm giao đất, trong đó có hộ ông Trương Văn Lý.
Ngày 19/12/2012, UBND thành phố Nha Trang có Quyết định số 5048/QĐ-UBND về việc giao đất cho hộ gia đình ông Trương Văn Lý để xây dựng nhà ở gia đình do ảnh hưởng dự án XD Khu TĐC Hòn Rớ II.
4.2. Kết luận:
Trên có sở xem xét toàn bộ quá trình sử dụng đất của hộ ông Trương Văn Lý, căn cứ thẩm quyền, UBND tỉnh đã xem xét, giải quyết hỗ trợ đối với trường hợp ông Trương Văn Lý và 02 trường hợp có cùng nguồn gốc đất là bà Trần Thị Phương Dung và ông Trần Minh Kiệt; đồng thời, do hộ ông Trương Văn Lý đủ điều kiện được mua 01 lô đất tái định cư theo giá thị trường theo văn bản số 700/UBND ngày 17/2/2011 của UBND tỉnh nên UBND thành phố Nha Trang đã có Quyết định số 5048/QĐ-UBND ngày 19/12/2012 về việc giao đất cho hộ gia đình ông Trương Văn Lý. Do đó, nội dung công dân tố cáo ông Nguyễn Ngọc Vóc – nguyên Giám đốc Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh Khánh Hòa tham mưu hỗ trợ sai cho ông Trương Văn Lý và tham mưu cấp đất tái định cư cho ông Lý không đúng quy định là không đúng.
Thông báo của UBND tỉnh tại đây