Hỏi: Tại sao “dự thảo văn bản quy phạm pháp luật” không đáp ứng định nghĩa về “thông tin do cơ quan nhà nước tạo ra”, nhưng vẫn phải được công khai rộng rãi?
Trả lời:
Một trong những loại thông tin phải được công khai theo quy định tại Điều 17 Luật Tiếp cận thông tin là “Dự thảo văn bản quy phạm pháp luật theo quy định của pháp luật về ban hành văn bản quy phạm pháp luật” (Điểm c Khoản 1).
Hiện nay, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 có nhiều quy định liên quan đến việc công khai dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, ví dụ như: Đối với dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội thì trong quá trình soạn thảo văn bản, cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội chủ trì soạn thảo phải lấy ý kiến đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản và cơ quan, tổ chức có liên quan; đăng tải toàn văn dự thảo văn bản và tờ trình trên cổng thông tin điện tử quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 36 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và của cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo trong thời gian ít nhất là 60 ngày, trừ những văn bản được ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn, để các cơ quan, tổ chức, cá nhân góp ý kiến. Trong thời gian dự thảo đang được lấy ý kiến, nếu cơ quan chủ trì soạn thảo chỉnh lý lại dự thảo văn bản mà khác với dự thảo đã đăng tải trước đó thì phải đăng lại dự thảo văn bản đã được chỉnh lý (Khoản 1 Điều 57 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật). Tương tự, cơ quan chủ trì soạn thảo dự thảo nghị định cũng có trách nhiệm tổ chức lấy ý kiến, nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo, xây dựng tờ trình, báo cáo giải trình, tiếp thu ý kiến góp ý về dự thảo và đăng tải các tài liệu này trên Cổng thông tin điện tử của Chính phủ và cổng thông tin điện tử của cơ quan chủ trì soạn thảo (Điểm c Khoản 2 Điều 90 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật)...
Như vậy, có thể thấy tuy dự thảo văn bản quy phạm pháp luật không đáp ứng được định nghĩa về “thông tin do cơ quan nhà nước tạo ra” (là văn bản chính thức, được ký, đóng dấu hoặc xác nhận của người có thẩm quyền) nhưng cần phải được công khai trong các trường hợp nhất định theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật để tạo điều kiện cho cơ quan, tổ chức, cá nhân, đặc biệt là đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản tham gia đóng góp ý kiến ngay trong quá trình soạn thảo, góp phần bảo đảm tính công khai, minh bạch trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, cũng như bảo đảm tính khả thi, tính đồng thuận với các quy định của văn bản sau khi được ban hành. Đây là ngoại lệ duy nhất của phạm vi thông tin thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Tiếp cận thông tin, là thông tin đã được tạo ra, thông tin chính thống.