Trong cơ chế thị trường, người tiêu dùng (NTD) có quyền lựa chọn những sản phẩm phù hợp với thị hiếu và lợi ích của mình. Nhưng NTD còn là công dân, vì vậy, họ còn phải có trách nhiệm công dân đối với tổ quốc. Trong mọi hoàn cảnh, mỗi hành vi của NTD đều thể hiện hai mặt: mục đích, thị hiếu và trách nhiệm đối với tổ quốc. Do vậy, nhà quản lý, nhà sản xuất phải dung hòa, đáp ứng được cả hai điều đó. Chỉ có như thế chúng ta mới bảo vệ được hàng hóa sản xuất trong nước một cách bền vững và lâu dài.
Nghiên cứu hành vi của NTD Việt Nam trong thời gian qua có thể thấy tâm lý “sính ngoại” đang chiếm ưu thế. Đây chính là một trong những nhân tố tiêu cực ảnh hưởng tới sự cạnh tranh của các DN Việt Nam. Thêm nữa, công tác quản lý, chất lượng và giá cả hàng hóa cũng là những “rào cản” trong việc vận động người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam.
Như vậy, để thúc đẩy sử dụng hàng hóa trong nước, chúng ta cần tác động tới NTD, nhà sản xuất, phân phối và quản lý.
Đối với NTD, chúng ta cần đưa ra một định hướng hành động toàn diện và bao quát để khắc phục tư tưởng “sính ngoại”. Đó là: Cái gì có thể thay thế được bằng của Việt Nam, phải thay thế cho bằng được. Cái gì không thể thay thế được bằng của Việt Nam thì hãy biến nó thành cái của Việt Nam.
Vậy cái gì có thể thay thế được bằng của Việt Nam? Câu trả lời đó là những yếu tố ngoại lai mà khi thay thế, nó không làm giảm hoặc giảm rất ít hay thậm chí làm tăng lợi ích của người sử dụng đồng thời lại mang tính tích cực cho văn hóa và giá trị Việt Nam.
Chẳng hạn, các mặt hàng sữa nội - sữa ngoại, thuốc nội - thuốc ngoại là một dẫn chứng điển hình. Tuy chất lượng như nhau, nhưng NTD vẫn thích dùng hàng ngoại hơn mặc dù giá đắt hơn nhiều. Về vấn đề này, chúng ta hoàn toàn có thể giải quyết được bằng cách thay thế bằng hàng hóa Việt Nam, vừa tiết kiệm cho NTD, vừa có lợi cho đất nước.
Mặt khác trong xu thế hội nhập quốc tế, việc du nhập hàng hóa và giá trị văn hóa bên ngoài là tất yếu. Những thứ chúng ta thiếu, không có hoặc chưa thể sản xuất được thì chúng ta cần phải tiếp nhận nó. Nhưng chúng ta tiếp nhận để dần dần có thể làm chủ nó, biến nó thành cái của mình hoặc chí ít cũng mang những dấu ấn của mình theo tinh thần: Cái gì không thể thay thế được bằng của Việt Nam thì hãy biến nó thành cái của Việt Nam.
Ví dụ, khoa học- công nghệ tiến tiến của nước ngoài chúng ta chưa có, chúng ta có thể nhập khẩu. Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng, ta dần dần làm chủ nó, từng bước thay thế những bộ phận có thể thay thế bằng của mình và biến nó thành cái của mình. Khi tất cả đã được Việt hóa thì chắc chắn tư tưởng sính ngoại cũng sẽ giảm một bước. Hành động này không phải của riêng ai mà là của toàn xã hội, của từng cá nhân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống. Làm được như vậy chắc chắn NTD sẽ không còn thờ ơ, hờ hững với hàng hóa sản xuất trong nước.
Đối với nhà quản lý, phải thực hiện được việc quản lý hàng hóa sản xuất và tiêu thụ ở trong nước, hàng hóa nhập khẩu để tạo sự an tâm cho NTD và sự công bằng trong kinh doanh. Bất kỳ sự buông lỏng quản lý nào, bất kỳ thái độ không tốt nào của nhà sản xuất và nhà phân phối cũng sẽ làm cho người tiêu dùng nghi ngờ dẫn đến mất lòng tin. Công tác quản lý không thể làm theo kiểu “thấy đâu làm đó” mà cần thực hiện dứt điểm, chắc chắn với phương châm: Cái gì có thể làm được thì phải làm cho bằng được, dù là nhỏ nhất. Chẳng hạn, trong lĩnh vực phân phối, phải quản lý được toàn bộ các siêu thị, tạo ra một nơi NTD thực sự an tâm khi mua hàng; rồi sau đó thực hiện ở các phạm vi khác như các khu chợ, các khu dân cư…
Đối với nhà sản xuất, cần phải quan tâm tới thị hiếu và nhu cầu của NTD để đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao chất lượng, hạ giá thành bằng lợi thế của mình. Sản phẩm nào chưa thể cạnh tranh bằng chất lượng thì cạnh tranh bằng giá, bằng chất lượng phục vụ (văn minh thương nghiệp) nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu của NTD trong khả năng có thể. Nhà sản xuất cũng cần xác định rõ một nguyên tắc: Không thể “buộc” NTD sử dụng hàng hóa của mình bằng bất cứ giá nào.
Bên cạnh đó, trong cuộc vận động lớn này, truyền thông có vai trò rất quan trọng. Các phương tiện thông tin đại chúng cần tăng cường quảng bá hình ảnh của hàng hóa Việt Nam, phê phán thị hiếu “lạc lõng” cũng như hành vi xấu của nhà sản xuất, nhà phân phối.
Việc quảng bá không chỉ dừng lại ở thông tin, tuyên truyền, băng rôn, khẩu hiểu hoặc những lời kêu gọi tích cực mà chúng ta cần phải đi sâu hơn thế, đưa việc tuyên truyền vào trong đời sống văn hóa, nghệ thuật (chẳng hạn quảng bá hàng hóa Việt Nam qua phim ảnh …), đồng thời phát huy vai trò của các nhà hoạt động nghệ thuật trong việc bảo vệ các giá trị văn hóa Việt Nam mà cụ thể là hàng hóa Việt Nam.