Bài học về phòng ngừa khủng hoảng
Trước hết, nói về nguyên nhân của cuộc khủng hoảng thì có nhiều ý kiến. Nhưng, có lẽ không nên đổ lỗi cho đầu cơ, vì đầu cơ gắn với bản chất của kinh tế thị trường. Một khi đã chấp nhận kinh tế thị trường thì phải chấp nhận sống chung với đầu cơ. Cũng không nên qui chụp cho các công cụ tài chính phái sinh. Các công cụ tài chính phái sinh là những phát minh của nhân loại trong nền kinh tế thị trường. Không phải vì những phát minh này mà sinh ra khủng hoảng cũng như không phải vì loài người đã phát minh ra chất nổ mà sinh ra bom đạn để giết người. Bản chất của loài người là phát minh. Loài người đã, đang và sẽ tiếp tục phát minh để phục vụ cho đời sống của mình.
Từ những nghiên cứu đã được công bố, có thể thấy rằng nguyên nhân của cuộc khủng hoảng chính là sai lầm trong quản trị rủi ro tín dụng. Cụ thể là sai lầm về chiến lược quản trị rủi ro của các định chế tài chính–ngân hàng (định chế TC-NH). Giới nghiên cứu đều cho rằng giá cả nhà đất sụt giảm đã làm người vay mua nhà thế chấp không trả được nợ dẫn đến khủng hoảng. Điều này nói lên rằng, một mặt, các định chế TC-NH đã đặt cược việc trả nợ của người vay vào nhà thế chấp, mặt khác, các định chế này bỏ qua rủi ro về tài sản thế chấp. Các nhà quản lý trong các định chế đó không phải là không nghĩ tới nhân tố chu kỳ kinh tế ảnh hưởng đến giá cả của tài sản đảm bảo, không phải là không nghĩ tới việc giá cả của một hàng hoá ở thời điểm này càng tăng mạnh thì sẽ càng có nguy cơ giảm mạnh ở một thời điểm khác trong tương lai, mà họ đã bỏ qua điều đó để thực hiện tăng trưởng tín dụng.
Họ vẫn có thể đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng tín dụng bằng việc đặt cược vào tài sản đảm bảo. Hay nói một cách chung nhất là họ vẫn có thể thực hiện được việc cấp tín dụng “dưới chuẩn” mà vẫn không đặt định chế TC-NH vào trạng thái đối mặt với rủi ro phá sản nếu đảm bảo được nguồn tài chính đủ bù đắp cho những tổn thất xảy ra. Nguồn này bao gồm vốn tự có và dự phòng rủi ro tín dụng. Tức phải tăng một trong hai nguồn này, hoặc tổng hai nguồn này một cách tương ứng với mức độ rủi ro đối mặt. Có điều, làm vậy, tăng trưởng tín dụng chưa hẳn đã làm tăng tỷ suất lợi nhuận (hệ số ROE).
Vậy, với mục tiêu tăng trưởng tín dụng để tăng doanh thu, nhằm đạt được hệ số ROE kỳ vọng, các nhà quản lý, điều hành của định chế TC-NH đã lựa chọn một chiến lược rủi ro liều lĩnh: thả lỏng các điều kiện cấp tín dụng, chấp nhận rủi ro cao nhưng không đảm bảo nguồn tài chính bù đắp tổn thất tương ứng với mức độ rủi ro. Không phải chỉ lợi ích của các cổ đông mà chính lợi ích (lương, thưởng, thăng tiến, cơ hội nghề nghiệp,…) của họ cũng đi liền với hệ số ROE. Việc theo đuổi một chiến lược quản trị rủi ro liều lĩnh đã tạo ra những khoản nợ tiềm tàng tổn thất và tích tụ lại theo năm tháng cùng với sự tăng trưởng tín dụng. Đến một lúc, một mặt, sự tích tụ tổn thất tiềm ẩn này vượt quá khả năng chịu đựng của định chế TC-NH, mặt khác, chúng tất yếu sẽ bộc lộ ra làm định chế TC-NH trở tay không kịp, kết quả là phá sản.
Việc các định chế TC-NH thực hiện được việc theo đuổi một chiến lược rủi ro liều lĩnh để rồi đi đến chỗ phá sản chứng tỏ rằng đã thiếu một cơ chế kiểm soát rủi ro hiệu quả để buộc những người quản lý, điều hành của các định chế TC-NH tuân thủ những chuẩn mực quản trị rủi ro tối thiểu nhằm đảm bảo an toàn hoạt động cho hệ thống này. Một cơ chế như vậy chỉ có thể là một cơ chế trong đó nhà nước với công cụ pháp luật trong tay đóng vai trò then chốt. Lê-nin đã từng nói, chỉ có thể làm cho hàng triệu người tuân thủ theo một trật tự nhất định bằng pháp luật.